Advertisement

Responsive Advertisement

Lịch Sử Những Chiếc Đồng Hồ Thông Minh

Trong những năm gần đây các ông lớn công nghệ như Apple, Samsung, Huawei v.v. dành hàng triệu đô la cho công nghệ đồng hồ thông minh (smartwatch). Và những gì các hãng này đạt được là rất đáng nể, khi thị trường smartwatch ngày càng mở rộng, doanh số tăng nhanh theo từng năm. Có thể nói, smart watch đang dần trở thành một thiết bị thông minh không thể thiếu đối với người dùng. 

Để giúp các bạn hiểu rõ hơn về lịch sử của smartwatch, trong bài viết này chúng ta hãy cùng nhìn lại chặng đường phát triển của đồng hồ thông minh, từ thuở sơ khai cho đến thế hệ hiện smart watch hiện đại nhất. 

Cột mốc đầu tiên trong lịch sử đồng hồ thông minh


Năm 1972, Hamilton Watch Company và Electro / Data Inc. đã phát triển chiếc đồng hồ kỹ thuật số đầu tiên có tên là Pulsar. Với lớp vỏ được làm từ vàng 18 carat cùng với đó là màn hình đèn LED, chiếc đồng hồ này được bán ra với mức giá 2.100 USD vào thời bấy giờ. Mặc dù nhìn nó khá thô sơ so với những chiếc smart watch ngày nay, nhưng vào thời điểm đó Pulsar là sản phẩm có tính cách mạng và nhận được sự chú ý rất lớn. 

Những cải tiến mạnh mẽ đến từ Seiko

Không lâu sau màn ra mắt của chiếc Pulsar, hàng loạt các công ty Nhật Bản nắt đầu thử nghiệm những mẫu đồng hồ cho phép người dùng có thể nhập dữ liệu. Seiko là một trong những công ty tiên phong trong việc phát triển các sản phẩm như thế, 
Năm 1983, họ phát hành chiếc T001 nổi tiếng từng được nhìn thấy trong bộ phim James Bond’s Octopussy. Đồng hồ có thể được kết nối với một bộ thu TV di động, màn hình được chia thành hai khu vực riêng biệt. Phần trên cùng được dành cho các tính năng tiêu chuẩn của đồng hồ như hiển thị thời gian và đặt báo thức nhưng phần dưới cùng được sử dụng để xuất video, mặc dù chất lượng kém. 

Đồng hồ thông minh kết nối không dây đầu tiên 


Năm 1994, Timex Datalink trở thành chiếc đồng hồ đầu tiên có khả năng tải dữ liệu không dây từ máy tính xuống. 

Đồng hồ thông minh Linux



Nhà phát minh tiên phong Steve Mann đã thiết kế và phát triển chiếc đồng hồ thông minh Linux đầu tiên vào năm 1998. Sau khi giới thiệu chiếc đồng hồ này, ông đã được ca ngợi một cách như là cha đẻ của đồng hồ có chức năng của một chiếc máy tính. 

Chiếc đồng hồ thông minh đầu tiên có thể gọi điện 



Vào năm 1999 Samsung là công ty đầu tiên trình làng chiếc smartwatch có chức năng gọi điện, có tên là SPH-WP10. Thiết bị được trang bị một màn hình LCD đơn sắc, tích hợp thêm một loa và một micro cho phép người dùng đàm thoại 90 phút. Mặc dù Samsung đã nhanh chóng từ bỏ dòng sản phẩm này, nhưng nó vẫn được xem là một thành tựu lớn trong lĩnh vực smartwatch lúc bấy giờ.  

Đóng góp của IBM 



Năm 2000, IBM đã tiết lộ một mẫu đồng hồ thông minh Linux nguyên mẫu được gọi là WatchPad. Mặc dù phiên bản gốc còn thiếu sót, nhưng công ty đã nhanh chóng nâng cấp nó. Năm 2001, WatchPad 1.5 có cảm biến gia tốc, cảm biến vân tay và cơ chế rung. Hơn nữa, nó chạy hệ điều hành Linux 2.2, có màn hình cảm ứng QVGA 320 x 240 QVGA, Bluetooth, 8MB RAM và 16MB bộ nhớ flash. 

Đồng hồ thông minh PDA



Mặc dù độc giả nhỏ tuổi có thể không nhớ những thiết bị này, nhưng PDA đã rất phổ biến vào đầu những năm 2000. Đây thực sự là một thiết bị mang tính cách mạng và có thể được coi là tiền thân của đồng hồ thông minh ngày nay. Nó có khả năng trao đổi dữ liệu với PC và có bàn phím ảo, màn hình cảm ứng, cổng hồng ngoại và bút cảm ứng nhỏ để người dùng có thể tương tác với nó hiệu quả hơn. Các nhà phê bình vào thời điểm đó đã ca ngợi nó vì những đổi mới của nó, bao gồm khả năng sử dụng một loạt các ứng dụng khác nhau trong Palm OS. 

Sai lầm của Microsoft 

Năm 2004, Microsoft đã cố gắng thâm nhập thị trường với mẫu đồng hồ thông minh Smart Personal Objects Technology (SPOT). Toàn bộ dự án thực sự là tiền thân của thiết bị đeo tay và ứng dụng IoT trong nỗ lực cá nhân hóa công nghệ. Thật không may, Microsoft đã đưa ra một số quyết định sai lầm dẫn đến sự thất bại của dự án.

Sự khởi đầu của smart watch ngày nay 

Kể từ đó, một số công ty đã thử sức với đồng hồ thông minh mặc dù hầu hết các nỗ lực đều quá phi thực tế để thu hút người dùng. Vào năm 2012, Pebble gần như đã thay đổi cả thị trường thiết bị đeo tay bằng cách đánh dấu một điểm mới trong lịch sử đồng hồ thông minh khi chiến dịch Kickstarter trị giá 10 triệu đô la của nó đã cho tất cả các công ty công nghệ lớn thấy rằng có nhu cầu thực sự đối với các thiết bị như vậy. Omate vào năm 2013 là công ty đầu tiên thiết kế một chiếc đồng hồ thông minh độc lập thực sự. Cái gọi là TrueSmart có thể thực hiện cuộc gọi, sử dụng bản đồ và tận dụng các ứng dụng Android hoàn toàn độc lập. Mặc dù chiến dịch Kickstarter của họ chứa đầy những sai lầm và thất bại, nhưng nó đã đánh dấu sự khởi đầu của một kỷ nguyên samrt watch mới . 


Đăng nhận xét

0 Nhận xét